Guadua Augustifiola Kuth là loại thân trơn, không có gai khi trưởng thành nên về mặt khai thác sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Dễ hơn cả tre Moso.
Gùa đặc biệt vì nó không bị chết hàng loạt khi ra hoa, bởi vậy khai thác gần như không có tuổi, cứ năm nọ nối năm kia, rừng tre vào giai đoạn này phải nói là một cỗ máy in tiền đúng nghĩa.
Gùa có đặc điểm lai căng của tre nhiệt đới và tre ôn đới, nó là tre mọc cụm nhưng thân cách thân lại đủ xa, chừng 50-70cm, bởi vậy rất thuận tiện khai thác không khác gì tre ôn đới như Moso Nhật hay Trung Quốc.
Được ví là loài tre thép, hay thép thực vật bởi chúng chắc khỏe dẻo dai như thép, cường độ chịu kéo của loại tre này tương đương với thép ở giới hạn I (chảy dẻo) cỡ ~ 2.600kG/cm2.
vị trí mà mầm tre Gùa sẽ mọc cây mới lên, chính là phần tiếp giáp giữa các rễ cụt với củ gốc.
Thông thường thì 1 củ Gùa chỉ mọc 1 mầm thôi, nhưng sau đó nó đẻ rất nhanh, và măng thân sau sẽ to hơn, dần to to to.
Loại này lúc nhỏ sẽ có gai, sau lớn dần và thành thục ở năm thứ 4-5 (trồng từ phôi) hoặc năm thứ 6-7 (trồng từ cây cấy mô) sẽ không có gai nữa mà lên thẳng tắp, thuôn đều rất đẹp.
Đây là loại tre mà theo Qua nhận định, nó sẽ định nghĩa lại ngành công nghiệp gỗ-tre và các sản phẩm ứng dụng tre trong đời sống, văn hóa, và môi trường.
Gùa là loại tre có tốc độ sinh trưởng nhanh nhất thế giới, 1 năm có thể tạo ra 86 tấn sinh khối, và hấp thụ khoảng 78 tấn CO2 trên mỗi ha, tương đương 21 tấn Carbon.
Sau khi thị trường tín chỉ carbon được vận hành, chắc chắn sẽ có nhiều doanh nghiệp quan tâm tới việc trồng rừng tre bền vững – dù là tự nguyện hay bắt buộc thì việc có trách nhiệm với môi trường cũng sẽ được đề cao.
Khi đó, những rừng tre sẽ nhận được sự quan tâm đầu tiên bởi tính chất tái sinh – khai thác bền vững của loài thực vật độc đáo này. Rừng tre không mất đi như những loài thực vật lấy gỗ khác, chúng luôn luôn được tái sinh qua mỗi mùa măng, và tuổi khai thác cố định, măng lên cây đủ 4 năm là chặt hạ, như vậy trạng thái của rừng tre luôn luôn là cân bằng.
KHÔNG NỨT DỌC THÂN.
Đó chính là khac biệt của tre Gùa so với các loại tre thông thường ngay cả ở trạng thái không ngâm xử lý.
Độ co ngót của tre khi khô rơi vào khoảng 10%, trong quá trình này thường xuất hiện nhiều vết nứt chạy dọc thân.
Với cấu trúc đốt tre càng dài, càng dễ xuất hiện vết nứt rõ nét, nghiêm trọng hơn.
Vết nứt tre, về cơ bản ít ảnh hưởng tới khả năng chịu lực nhưng ảnh hưởng lớn tới thẩm mỹ và tuổi thọ.
Gùa có các đốt thân ngắn, một phần lớn nữa là cấu trúc của tre Gùa xơ hơn so với các loại tre khác, do đó nó khó nứt hơn, khó tới mức có thể nói không có vết nứt dọc thân khi tre khô.
Rất nhiều điểm ưu việt của tre Gùa để khẳng định sức cạnh tranh của loại tre này so với các loại tre thông thường.
Tre Gùa có thể nói là, giá trị từ rễ tới ngọn!
Phần gốc của chúng rất lớn, sâu tới 3m dưới lòng đất, chúng chiếm 25-30% tổng sinh khối của cây tre Gùa, do vậy, hoàn toàn có thể khai thác phần gỗ tre đặc biệt này để làm đồ thủ công, decor.
Có những chiếc hộp trang sức được làm bằng gốc tre rất đẹp.
Môn Polo của giới quý tộc Nam Mỹ cũng sử dụng quả bóng làm từ gỗ rễ tre Gùa.